Lọc màng bụng (còn gọi là thẩm phân phúc mạc) là phương pháp điều trị thay thế thận, được áp dụng phổ biến với người bệnh suy thận. Dù không phải người bệnh nào cũng có thể thực hiện và vẫn còn một số hạn chế, kỹ thuật này vẫn mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh suy thận mạn.
Lọc màng bụng là gì?
Lọc màng bụng (thẩm phân phúc mạc) là phương pháp dùng chính màng bụng của người bệnh để làm màng lọc thay thế cho thận đã suy yếu. Phương pháp điều trị này giúp lọc những chất chuyển hóa, nước điện giải khỏi cơ thể, cân bằng nội môi.
Diện tích màng bụng gần bằng diện tích của cơ thể (khoảng 1 – 2m²). Khoang ổ bụng thường chứa khoảng 100ml dịch sinh lý, có khả năng chứa hơn 2l dịch lọc màng bụng mà không gây khó chịu hay ảnh hưởng tới chức năng hô hấp của người bệnh. Màng bụng được dùng như màng bán thấm ngăn cách giữa hai khoang. Một bên là khoang chứa dịch, bên còn lại là những mao mạch quanh màng bụng. Trong quá trình dịch lọc màng bụng lưu trong khoang bụng, quá trình khuếch tán, siêu lọc, hấp thu được diễn ra đồng thời.
Quá trình khuếch tán là hiện tượng những chất hòa tan đi từ nơi có nồng độ cao trong máu như ure, creatinin, kali… qua màng bán thấm (màng bụng) đến khoang chứa dịch lọc. Sự chênh lệch áp lực thẩm thấu giữa dịch lọc và mạch máu sẽ giúp nước thẩm thấu từ khoang máu sang khoang dịch lọc, từ đó loại bỏ nước thừa trong cơ thể.
Những phương pháp lọc màng bụng
1. Lọc màng bụng cấp
Ở phương pháp này, bác sĩ sẽ đặt một ống thông tạm thời vào khoang bụng của người bệnh. Cứ mỗi lần 2l dịch lọc được đưa vào khoang màng bụng của người bệnh. Sau 2 giờ, dịch được tháo ra, đưa tiếp 2l dịch lọc mới. Bác sĩ sẽ thực hiện liên tục cho tới khi người bệnh hết rối loạn điện giải, nội môi được cân bằng, chức năng thận phục hồi.
Phương pháp được thực hiện khi không có thận nhân tạo hay người bệnh chống chỉ định với thận nhân tạo. Lọc màng bụng cấp được chỉ định trong trường hợp suy thận cấp tính hay những đợt tiến triển nặng của suy thận mạn, khi pH máu ≥ 7,2 , kali máu ≥ 6,5mmol/l, ure máu ≥ 30mmol/l, quá tải thể tích tuần hoàn đe dọa phù phổi cấp…
2. Lọc màng bụng liên tục ngoại trú (CAPD)
Bác sĩ sẽ luồn một ống thông cố định qua một đường dưới da thành bụng vào khoang bụng đến vị trí sát túi cùng Douglas. Loại ống thông thường được sử dụng là catheter Tenckhoff, có 2 nút chặn. Quá trình đặt ống thông được tiến hành trong phòng phẫu thuật, cố định trong suốt thời gian người bệnh thực hiện phương pháp.
Khi lọc màng bụng liên tục ngoại trú, dịch lọc luôn hiện diện trong khoang bụng của người bệnh. Dịch này được thay 4 lần trong ngày. Quá trình thay, tháo dịch được tiến hành bằng tay, có thể được thực hiện tại nhà. Những giai đoạn trao đổi dịch diễn ra như sau:
- Giai đoạn 1 (đưa dịch vào): Dịch chưa lọc vô trùng được đưa vào ổ bụng qua catheter.
- Giai đoạn 2 (ngâm dịch): Ngâm dịch lọc trong ổ bụng khoảng 4 – 8 tiếng tùy theo nồng độ dịch.
- Giai đoạn 3 (xả dịch ra): Xả dịch đã ngâm ra ngoài dưới tác dụng của trọng lực. Sau khi xả hết dịch đã ngâm, bác sĩ bắt đầu đưa dịch vào như giai đoạn 1.
3. Lọc màng bụng chu kỳ tự động (ADP)
Khi tiến hành lọc màng bụng chu kỳ tự động, một ống thông sẽ được thiết lập để trao đổi dịch. Phương pháp thẩm phân phúc mạc này được chia thành:
- Lọc liên tục chu kỳ: Mỗi đêm khoảng 3 – 10 lần, dịch lưu được đưa vào cơ thể thông qua một thiết bị trao đổi dịch chu kỳ tự động. Ban ngày, người bệnh được lưu một thể tích dịch lọc trong ổ bụng. Lượng dịch này được tháo ra trước chu kỳ lọc ban đêm.
- Lọc cách quãng ban đêm: Diễn ra như lọc theo chu kỳ, ngoại trừ việc không có dịch lọc trong cơ thể của người bệnh vào ban ngày. Số chu kỳ lọc ban đêm được tăng lên để bù lại sự thiếu lần lưu dịch ban ngày.
- Lọc màng bụng thủy triều: Đâu là phương thức dùng thể tích dịch đưa vào ban đầu sau đó dẫn lưu dịch một phần trong các khoảng nghỉ chu kỳ.
- Lọc màng bụng liên tục ngoại trú và lọc màng bụng chu kỳ tự động được áp dụng cho người bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối khi mức lọc cầu thận < 15ml/ph, khi người bệnh ở xa những trung tâm lọc máu nên không thể thực hiện chạy thận nhân tạo hay có chống chỉ định với chạy thận nhân tạo.
Ưu điểm của thẩm phân phúc mạc
- Đơn giản, có thể thực hiện ở những nơi không có máy chạy thận nhân tạo, người bệnh không phải phụ thuộc vào máy móc.
- Phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là với người còn đi học, đi làm.
- Phù hợp với người bệnh có huyết động không ổn định vì phương pháp lọc màng bụng làm thay đổi từ từ những chất hòa tan và lượng nước trong cơ thể.
- Hiệu quả lọc máu tốt, giúp bảo tồn tốt thận.
- Người bệnh ít bị mất máu, thiếu sắt.
- Chế độ dinh dưỡng của người bệnh ít bị hạn chế hơn khi áp dụng phương pháp chạy thận nhân tạo.
- Người bệnh không cần sử dụng các loại thuốc chống đông thường xuyên, nhờ đó hạn chế nguy cơ đột quỵ, xuất huyết tiêu hóa.
Không như người bệnh chạy thận nhân tạo phải tới bệnh viện 3 lần/tuần để lọc máu, bệnh nhân thực hiện tại nhà, chỉ tái khám hàng tháng và lãnh dịch lọc, thuốc. Đặc biệt trong dịch COVID-19 này, người bệnh ít phải tới bệnh viện, có thể 2 tháng mới tới tái khám, giảm thiểu nguy cơ nhiễm bệnh.
Chỉ định và chống chỉ định lọc màng bụng
Chỉ định
- Người bệnh được chỉ định lọc màng bụng khi suy thận cấp, suy thận mạn và không áp dụng được những những kỹ thuật nhân tạo.
- Người bệnh không tạo được đường vào mạch máu cho việc chạy thận nhân tạo.
- Tình trạng tim mạch không ổn định, có nguy cơ bị tai biến khi chạy thận nhân tạo.
Chống chỉ định
- Người bệnh không được lọc màng bụng nếu khoang màng bụng bị nhiễm trùng, dính màng bụng nhiều, cơ hoành không kín để dịch tràn lên khoang ngực, thoát vị bẹn rộng hay do khả năng thanh lọc của màng bụng.
- Khi mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính vì phương pháp này gây nhiều khó khăn trong việc kiểm soát phổi.
- Người bệnh không thể tự thực hiện được nếu không có người hỗ trợ
- Người bệnh mắc bệnh đại tràng mạn tính, viêm ruột, rối loạn tâm thần, vừa trải qua những phẫu thuật khác tại ổ bụng.
- Người bệnh bị béo phì hoặc suy dinh dưỡng.
Nguy cơ có thể xảy ra khi lọc màng bụng
Những nguy cơ sau khi thực hiện phương pháp lọc màng bụng có thể xảy ra như:
- Tăng đường máu do dịch lọc màng bụng có nồng độ glucose 1,5g%, 2,5g% hoặc 4,25g%.
- Viêm phúc mạc, nhiễm trùng đường ra của ống thông do người bệnh không tuân thủ quy trình được hướng dẫn khi thực hiện tại nhà.
- Huyết áp bị hạ do siêu lọc rút ra nhiều dịch. Tỷ lệ tăng huyết áp tăng cao ở người bệnh xơ gan cổ chướng những ngày đầu.
- Mất nhiều protein qua lọc.
- Rối loạn nhịp tim, hạ thân nhiệt.
- Một số nguy cơ khác như rò rỉ dịch từ ổ bụng, tụt catheter vào trong hay ra ngoài ổ bụng, tắc catheter, chảy máu tại vị trí đặt catheter hay vào khoang phúc mạc.